1. Vị trí con đường
Đường Huỳnh Thúc Kháng chạy men theo sông đào Đông Ba, nằm trên địa bàn phường Phú Hòa, về phía Đông Kinh thành Huế, khởi đầu từ đường Trần Hưng Đạo, qua ngã ba Mai Thúc Loan đến đường Đào Duy Anh (điểm tiếp giáp cầu Thanh Long), dài 1267m. Đường lưu thông hai chiều, cấm xe tải nặng.
2. Lịch sử con đường
Đường hình thành vào đầu thế kỷ 19, cùng thời với việc đào sông Đông Ba. Giữa thế kỷ 19, đường này trở thành khu vực buôn bán sầm uất, trên bến dưới thuyền. Là đường phố quay mặt ra phía sông và chỉ một mặt có nhà ở. Thời Pháp thuộc có tên đường Bờ sông Đông Ba (Quai de Dong Ba), có đoạn lại gọi đường Queignec (Rue Queignec). Năm 1956 đổi, đặt lại là đường Huỳnh Thúc Kháng (đường Huỳnh Thúc Kháng từ 1995 trở về trước, kéo đến cầu Bao Vinh, dài gần 3000m. Năm 1996 cắt một phần để đặt đường Đào Duy Anh) cho đến ngày nay. Dân gian vẫn thường gọi là đường Hàng Bè.
3. Tiểu sử nhân vật lịch sử gắn liền với con đường
Huỳnh Thúc Kháng (Bính Tý 1876 - Đinh Hợi 1947) Huỳnh Thúc Kháng là nhà chí sĩ, học giả yêu nước, thuở nhỏ có tiểu danh là Thước, tên chữ là Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên và còn có thêm 9 bút danh khác như: Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch, Khỉ Ưu Sinh, Xà Túc Tử, Thúc Tự Dân, Ưu Thời Khách, Hải Âu, Ngu Sơn, Khách Quan. Quê ở làng Thanh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, phủ Thăng Bình, sau đổi là phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Ông đỗ Tiến sĩ 1904, lúc 28 tuổi, nhưng không ra làm quan nhà Nguyễn, mà tham gia hoạt động, lo tìm cách chống Pháp cứu nước. Ông là một trong những nhân vật lãnh đạo phong trào Duy tân, bị giặc Pháp bắt 1908, đày ra Côn Đảo suốt 13 năm, đến 1921 mới được trả tự do. Năm 1926, ông được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Trong 3 năm làm Viện trưởng, ông thường chỉ trích gay gắt chính sách của chính phủ Pháp thi hành tại Trung Kỳ. Nhân việc va chạm với viên Khâm sứ Jabouille, ông từ chức Viện trưởng. Trong "Huỳnh Thúc Kháng niên phổ" ông viết rằng: "Lịch sử dân biểu của tôi, kể từ ngày tháng 7/1926 đắc cử ở Trung Kỳ diễn thuyết một lần đầu tiên; đến ngày tháng 10 - 1928 có một bài diễn văn cuối cùng, trong hai năm ấy, có hai lần phản kháng, người đời truyền là vụ D’Elloy - Huỳnh Thúc Kháng và vụ Huỳnh Thúc Kháng - Jabouille". Năm 1927, ông đứng ra sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Tiếng Dân, chủ nhà in Tiếng Dân tại Huế, đến năm 1943 báo Tiếng Dân bị thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Pháp đàm phán, ông được trao quyền Quyền Chủ tịch Chính phủ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông được Chính phủ đặc phái vào Liên khu 5. Ngày 21/04/1947, trên đường công tác, ông lâm bệnh nặng rồi mất, hưởng thọ 71 tuổi; Cụ Hồ nghe tin vô cùng thương tiếc, trong lời điếu có đoạn ca tụng rằng: "Cụ Huỳnh tạ thế, nhưng cái chí vì nước vì nhà của cụ vẫn luôn luôn sống mãi trong tâm hồn của hai chục triệu đồng bào ta". Mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng táng tại ngọn núi Thiên ấn, tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài hoạt động chính trị, Huỳnh Thúc Kháng còn là một nhà thơ, ông đã để lại các tác phẩm chính: Thi tù tùng thoại, Thi văn với thời đại, Thi văn các nhà chí sĩ Việt Nam, Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử, Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, Bức thư gửi Cường Để, Cuộc kháng thuế ở Trung Kỳ. Đình cổ phường Đệ nhất, UBND phường Phú Hòa, Di tích tòa soạn báo Tiếng Dân (do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút lập ra từ 1927), Hội Quảng tri (cũ), Lò mổ (Abattoir), Trường Tiểu học Thanh Long (trường Cây-nhếch cũ), Trường THCS Huỳnh Thúc Kháng nằm trên đường này.