Tri thức may, mặc áo dài Huế được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Sau khi vào danh mục quốc gia, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục hoàn thiện hồ sơ để trình lên UNESCO, đề xuất tổ chức công nhận nét đẹp trở thành văn hóa phi vật thể nhân loại.
Hành động nhằm ghi danh tri thức của cộng đồng trong quá trình sáng tạo cũng như tập quán mặc áo dài.
Năm 1744, sau khi lên ngôi xưng vương ở phủ chính Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành nhiều chính sách, tổ chức lại bộ máy và đề cập đến việc cải cách triều phục.
Áo dài trở thành trang phục chính của người vùng Đàng Trong, khẳng định tính tự chủ trong văn hóa. Từ năm 1826 đến năm 1837, vua Minh Mạng đã ban hành chính sách để áo dài phổ biến cả nước.
Theo Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế, người Huế luôn quan niệm "y phục xứng kỳ đức". Vì vậy, trang phục không chỉ thuần túy là chuyện áo quần mà đã tạo nên hệ chuẩn mực giá trị thẩm mỹ và đạo đức, luân lý của xã hội, gắn liền việc phân định danh phận, vị thế, vai trò cá nhân, giai tầng.
Áo dài Huế được nhiều đối tượng sử dụng, từ học sinh, sinh viên, viên chức, thanh niên đến những lớp người trung niên, các bà già, chị em làm nghề buôn bán nhỏ ở các cửa hiệu, ngoài chợ. Các cô gái chọn màu áo trắng hay tím nhạt, học sinh, sinh viên chọn màu tím Huế làm đồng phục.
Ngày nay, người dân địa phương vẫn thường diện áo dài ra ngoài, tham gia nhiều hoạt động. Không chỉ phụ nữ, đàn ông cũng mặc trong các hoạt động như cưới hỏi, giỗ chạp, cúng tế đình miếu, du xuân dịp Tết. Nhận định với hơn 300 năm lịch sử, trang phục tạo nên hình ảnh, nét đặc sắc riêng của đất cố đô.
Nhiều năm nay, tỉnh và thành phố Huế đã có nhiều hoạt động đa dạng quảng bá nét đẹp áo dài.
Du khách chụp ảnh áo dài tại Đại Nội Huế
Đến nay, Thừa Thiên Huế đã có các di sản thế giới, gồm: Quần thể di tích cố đô Huế; nhã nhạc, âm nhạc cung đình Việt Nam; mộc bản triều Nguyễn; châu bản triều Nguyễn; thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế; những bản đúc nổi trên Cửu đỉnh.